
– Vương Mộng Long –
Báo cáo đầu tiên là Chuẩn úy Trung đội trưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm bị bắn vỡ bọng đái. Tiếp đó, hai Trung đội trưởng còn lại, Thiếu úy Phan Ngọc Ðồng và Thiếu úy Nguyễn Trọng Kháng cũng bị thương nhẹ.
Giao tranh kéo dài hai giờ đồng hồ. Ðịch bỏ chạy, để lại gần hai chục xác. Quân bạn thiệt hại mất một phần ba đại đội, vừa chết vừa bị thương.
Sợ địch sẽ tăng viện tấn công lần nữa, Ðại úy Thu đã cho lệnh Lê Hùng cố gắng tải thương và rút toàn bộ đại đội về với tiểu đoàn.
Nhưng mới đi được nửa đường đơn vị này lại bị địch chặn đánh ác liệt, Trung úy Lê Hùng bị thương nhẹ vì B.40.
Cuối cùng ông Tiểu đoàn trưởng đành nhờ Gunships can thiệp để giúp 3/23 rút về khu rừng thưa hướng Ðông nằm cố thủ.
Trong suốt thời gian đó đại đội của Trung úy Mừng cũng bị Việt-Cộng tấn công từ hướng Bắc. Khe suối cạn ngăn cách giữa Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 và Ðại Ðội 4/23 đã bị một lực lượng cỡ đại đội của Việt-Cộng chốt giữ, cắt đứt đường lui. Khoảng hai giờ chiều, Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 không còn liên lạc được với Trung úy Trần Mừng nữa.
Nghi ngờ rằng địch đang chuyển quân, Ðại úy Thu xin pháo binh và phi cơ liên tục đánh chặn trên tất cả các đường tiến sát quanh ngọn đồi anh đang trú đóng. Từ đó cho tới xế chiều, tình hình tạm lắng dịu, chỉ còn pháo binh của ta và không quân Mỹ hoạt động mà thôi.
Ðúng năm giờ chiều ngày 8 tháng Tư, ngọn đồi trung tâm, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 bị Việt-Cộng pháo kích như mưa. Tất cả Pháo Binh Cộng-Hòa từ Ben-Het, Dak-Tô và Tango cũng được lệnh quay mũi súng về hướng núi Ngok-Remang để ngăn chặn địch. Cả một vùng rừng núi trùng điệp chỉ còn là một cột khói và bụi khổng lồ cao ngút trời.
Trong thung lũng Dak-Lao súng nổ ran như pháo Giao-Thừa. Ðứng cách xa hơn ba cây số, tôi còn nhìn rõ những lằn đạn lửa chằng chịt, đan nhau, chéo qua, chéo lại sáng cả một vùng. Bộ chiến bắt đầu lúc trời sụp tối. Anh Thu cho biết địch tấn công biển người từ hai hướng Tây và Nam, nhiều đợt liên tiếp nhau. Quân hai bên đã đánh xáp lá cà nên Không quân Hoa-Kỳ được yêu cầu đánh cận phòng. Thiếu tá Lê Phú Ðào và viên Cố Vấn Trưởng phải liên tục thay nhau đối đáp với nhân viên điều không tiền tuyến trên trinh sát cơ O.V.10.
Vì phi cơ oanh kích theo trục Tây- Ðông, nên mỗi khi đánh bom xong, A 37 lại liệng sát trên Tango, lấy đà, rồi vọt lên cao, tiếng động cơ gầm rú ầm ầm, làm ù tai người dưới đất. Trên đỉnh Ngok-Remang hỏa châu soi sáng tựa ban ngày.
Vào lúc súng nổ rộ ác liệt nhứt thì liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân bị cắt đứt. Cùng lúc, Trung tá cố vấn trưởng cũng mất liên lạc với Ðại úy cố vấn của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân. Vì không còn liên lạc được với quân bạn, nên không yểm đành tạm ngưng. Thiếu tá Tòng cho lệnh Trung sĩ Minh (Ban 3) dò tìm các đài hiệu trên tần số nội bộ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, nuôi hy vọng.
Mãi gần mười giờ đêm, chúng tôi mới nghe tiếng Trung úy Mừng gọi liên đoàn xin tiếp cứu. Ðại Ðội 4/23 của anh bị đánh giạt xuống một cái khe núi hướng Ðông Bắc vị trí cũ, rồi bị lạc trong rừng lau sậy hướng Nam suối Dak-Lao. Thiếu tá Ðào cho lệnh Trung sĩ Hồng (Ban 3) mang một máy PRC 25 ra ụ cối 81 ly bắn trái sáng để hướng dẫn đoàn quân của Trung úy Mừng đi theo hướng nước chảy mà tìm về bờ sông Pơ-Kô.
Bất chợt, trên máy Viễn-Thám, tôi nghe Trung úy Nguyễn Văn Hùng gọi,
– Lê Lai đây Hồng Hà! Lê Lai đây Hồng Hà! Có nghe được không? Trả lời!
Mừng quá, tôi vội gắn cái loa khuếch âm vào máy, để tất cả mọi người có mặt trong trung tâm hành quân đều nghe.
Tới nước này, tôi chẳng còn câu nệ chuyện dùng ám danh hay ngụy thoại gì nữa, cứ bạch văn mà xài,
– Hồng Hà! Ðây Lê Lai! Phải Hùng Cá Sấu đó không?
– Tao đây, Long ơi!
– Mày hiện nay ra sao? Cho tao biết đi.
– Mẹ kiếp! Tao bị gãy hai chân rồi! Lính của tao thì áo đỏ, áo vàng lền khên (đỏ: chết, vàng: bị thương) Tụi tao đã chơi hết mình, nhưng tụi nó đông quá! Chắc tao không trụ được lâu đâu mày ơi!
– Anh Thái Bạch thế nào?
– Tao giữ mặt Tây, anh Thu nằm bên mặt Ðông với thằng Bao. Thằng Bao nói anh Thu chết rồi!
– Ðể tao lệnh cho thằng Mạnh Mẽ (Mừng) quay lại cứu mày!
– Nó chịu trận từ mờ sáng tới giờ, chắc không còn hơi sức đâu mà cứu tao.
– Thế còn thằng Bao. Nó có giúp gì cho mày được không?
– Thằng Bao cũng sắp hết đạn. Nó đang chuẩn bị rút. Nó cho người sang khiêng tao đi. Nhưng lính của tao bị thương nhiều lắm! Bỏ đàn em mà chạy thì tao không làm được. Thà chết thì thôi!
Hùng nói một hơi không nghỉ, tiếng nói của nó lẫn với tiếng súng chát chúa nghe như sát bên.
– Vậy thì tao có thể làm gì để giúp mày bây giờ?
Hùng Cá Sấu không trả lời. Hình như nó phải ngừng đàm thoại để tiếp tục bắn nhau?
Một hồi sau,
– Tao giục thằng Bao chạy rồi. Tao đoạn hậu cho nó chạy. Mày đón nó!
Tôi sang máy liên đoàn gọi Nguyễn Công Bao, nhưng không nghe ai trả lời.
Tình hình chắc chắn đang nguy kịch lắm nên tôi không nghe Hùng nói gì thêm. Lòng tôi bồn chồn, nóng như lửa đốt. Chúng tôi người này nhìn người kia, mà không ai biết sẽ phải làm gì lúc này. Chợt loa khuếch âm oang oang tiếng thét giựt giọng, lẫn với tiếng súng ròn rã, còn có cả tiếng “Oành! Oành!” của lựu đạn và thủ pháo,
– Lê Lai đây Hồng Hà! Tao bị tràn ngập rồi! Mày bắn lên đầu tao đi! Mau lên!
Tôi hướng về Trung tá Sâm,
– Thằng Hùng xin bắn lên đầu, xin Trung tá quyết định!
Trung tá Sâm nhìn sang Thiếu tá Tòng,
– Chỉ Ðại úy Thu mới có thẩm quyền. Giờ đây số phận cố vấn cũng không biết thế nào? Mình có xin oanh kích trên đầu quân bạn, chắc gì Mỹ nó chịu?
Thiếu tá Ðào trao đổi vài câu với ông Trung tá Mỹ, rồi lắc đầu,
– Họ không chịu!
Trên đầu máy bên kia, Hùng Cá Sấu hổn hển, nghẹn ngào,
– Lê Lai đây Hồng Hà!… Long ơi! Long ơi!… Tao phải bắn… viên đạn cuối cùng rồi!… Vĩnh biệt mày!
Rồi máy của Hùng tắt phụt. Tôi chết lặng người, tai ù đặc như bị ai bưng kín.
Những người khác trong trung tâm hành quân có thể hiểu rằng bạn tôi đã tự sát, nhưng chắc có lẽ họ không biết ý nghĩa sâu xa của danh từ “Viên đạn cuối cùng” này đâu. Danh từ ấy mang ý nghĩa của một sự đứt gánh giữa đường đầy chua xót, đồng thời cũng biểu hiện cái nghĩa khí can vân của một Cựu Sinh-Viên Sĩ-Quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
Năm xưa, trên ngọn đồi 1515, Ðà-Lạt, vào những giờ học “Lãnh Ðạo Chỉ Huy”, chúng tôi đã nghe thầy dạy lặp đi, lặp lại bao lần:
“Sau này ra chiến trường. Khẩu súng Colt các anh đeo bên mình sẽ là khẩu súng chỉ huy giúp các anh leo lên tới cấp tướng. Nhưng nhớ giữ lại viên đạn cuối cùng, dành cho chính các anh, giúp các anh không rơi vào tay địch.”
Lời khuyến cáo này đã trở thành câu kinh nhật tụng mỗi khi ra trận của chúng tôi, những sĩ quan xuất thân từ Trường Võ-Bị.
Ðêm 8 tháng Tư năm 1970, dưới chân ngọn Ngok-Remang (Kontum) cao ngút tới mây, “Cùi” Nguyễn Văn Hùng, Tham Mưu Ban 5 Liên Ðoàn của Khóa 20 Võ-Bị đã đứt gánh giữa đường, phải sử dụng đến viên đạn cuối cùng.
Từ lúc ấy cho tới sáng, tôi như một pho tượng, ngồi chôn chân trong một góc của trung tâm hành quân.
Sáng 9 tháng Tư, Thiếu tá Tòng ra lệnh cho Ðại úy Nguyễn Ngọc Di Trưởng Ban 3 dẫn theo hai anh lính hộ tống và một hiệu thính viên, lội qua sông để gặp Trung úy Mừng. Ðại úy Di có nhiệm vụ tập họp các cánh quân của Tiểu Ðoàn 23, dàn hàng án ngữ mặt Tây của Tango, bờ bên kia sông.
Trưa ngày 9 tháng Tư, Ðại Ðội 1/23 của Ðại úy Nguyễn Công Bao cùng một số quân nhân thuộc Ðại Ðội 2/23 cũng về tới bờ sông, nhập chung với cánh quân của Trung úy Trần Mừng.
Ðêm 9 tháng Tư từ hướng Bắc, Việt-Cộng mở hai đợt tấn kích vào điểm đóng quân của Ðại úy Nguyễn Ngọc Di. Nhưng A.C 119 và pháo binh trực xạ từ Tango đã đẩy lui hai đợt tấn kích này.
Sáng 10 tháng Tư Ðại tá Nguyễn Bá Thìn, Tư Lệnh Mặt Trận ra lệnh cho Biệt Ðộng Quân tái chiếm những ngọn đồi mới bị mất.
Trung tá Sâm ngoắc tôi vào lều riêng. Ông thì thầm,
– Ông (Ðại tá) Thìn cho phép mình tạm thời gửi vài toán trinh sát lên thăm dò trước để báo cáo với ông Tướng (Lữ Lan) rồi tính sau. Ông có thể giúp tôi việc này được không?
Tôi gật đầu,
– Vâng! Tôi sẽ thi hành ngay.
Trên danh sách Ðại Ðội Trinh Sát có bốn sĩ quan, nhưng chỉ ba người thực sự có mặt là các ông Thiếu úy Ðinh Quang Biện, Thiếu úy Nguyễn Văn Nhờ, Thiếu úy Nguyễn Quang Minh. Một ông nữa có tên, nhưng không biết lưu lạc phương nào là Thiếu úy Lê Trọng Huế. Ông này vừa trình sự vụ lệnh cho tôi buổi sáng, buổi chiều đã có lệnh đi tăng phái đâu đó mất tiêu.
Ðại Ðội Trinh Sát của Liên Ðoàn 2 có một trung đội xung kích và bốn toán Viễn-Thám, do Thiếu úy Ðinh Quang Biện (Khóa 25 Thủ-Ðức) chỉ huy. Thiếu úy Biện là một kiện tướng xuất thân từ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân. Những lúc thiếu sĩ quan trưởng toán, hoặc khi có nhiệm vụ gì đặc biệt, ông đại đội trưởng này thường đích thân dẫn Viễn-Thám vào vùng.
Trung đội xung kích có chừng trên, dưới hai mươi quân nhân, do một Thượng sĩ người Nùng chỉ huy. Mỗi toán Viễn-Thám có sáu người. Hai trưởng toán cấp sĩ quan là Thiếu úy Nhờ và Thiếu úy Minh. Thiếu úy Nhờ là trưởng toán xuất sắc nhứt.
Hiện thời ông Nhờ đi phục kích, ông Minh đang nằm Quân Y Viện Pleiku vì sốt rét. Hai hạ sĩ quan trưởng toán là Trung sĩ Lê Sanh Ma và Trung sĩ Nguyễn Lợi đều đã bị thương vì mìn. Vì thế, tôi quyết định sẽ cùng Thiếu úy Biện gánh vác công tác này.
Từ ngày đảm nhận chức vụ Trưởng Ban 2 Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân thay thế Ðại úy Ty, tôi đã trải qua nhiều lần “đi toán”. Chừa ra những phần đất thuộc trách nhiệm của các trại Dân-Sự Chiến-Ðấu, tôi đã đặt gót giày trên suốt dải Trường-Sơn từ ranh giới Quảng-Tín tới ranh giới Phước-Long. Lần vất vả nhứt là vụ tái chiếm căn cứ Kate (Quảng-Ðức) cuối năm 1969 trong chiến dịch giải vây Bu-Prang. Lần đó may mà Gunships cứu viện kịp thời, chứ không thì tôi và anh cố vấn Mỹ đã bị Việt-Cộng “tó” rồi.
Lần này nhiệm vụ của tôi không khó khăn lắm, chuyến đi cũng ngắn ngày, tôi lại được toàn quyền ứng phó với những biến cố sẽ xảy ra, do đó tôi không cảm thấy lo lắng gì cả.
Trưa 10 tháng Tư tôi và Thiếu tá Lê Phú Ðào bay ra Phi trường Phượng-Hoàng, thuyết trình cho phi hành đoàn Hoa-Kỳ tình hình bạn, địch, vị trí nghi ngờ có phòng không của Việt-Cộng, và các địa điểm thả quân dự trù.
Rồi theo đúng kế hoạch, Thiếu tá Lê Phú Ðào bay theo C&C (máy bay chỉ huy) hướng dẫn Gunships oanh kích bốn bãi giả để đánh lừa địch.
Trong khi đó, tôi âm thầm thả toán Bravo của Thiếu úy Biện trên một ngọn đồi cách mục tiêu chừng một cây số về hướng Tây. Sau đó vài phút, toán Alpha của tôi đáp xuống bìa làng Dak-Lao, cách mục tiêu hơn một cây số về hướng Bắc. Ba giờ chiều chân tôi đạp đất. Rồi trong vòng mười giây, chúng tôi biến mất trong rừng cỏ hôi.
Di chuyển cách bãi đáp chừng trăm mét, tôi cho Alpha dừng lại, quây thành một vòng tròn, án binh chờ mặt trời lặn. Tôi thử máy với Bravo và Bạch Mai (Trung tá Sâm) rồi mở bản đồ ra nghiên cứu lộ trình hướng tới mục tiêu tối nay.
Trong khi trực thăng võ trang còn đang oanh kích bốn bãi giả trên vùng đồng tranh hướng Ðông Bắc, chúng tôi chợt nghe tiếng chân người chạy “Huỳnh! Huỵch!” trên con đường mòn vắt chéo dưới chân ngọn đồi Alpha đang trú ẩn.
“Khẩn trương lên! Khẩn trương lên!” tên Việt-Cộng chỉ huy, vừa chạy, vừa lớn tiếng hối thúc đồng bọn.
Ðã có ít nhứt là ba, bốn toán Việt-Cộng hối hả chạy về hướng trực thăng đang vần vũ. Có lẽ đây là một đơn vị cơ động của địch có nhiệm vụ tập kích các bãi đáp trực thăng? Hôm đầu tháng, chúng đã bắn rơi ba, bốn trực thăng Hoa-Kỳ khi họ thi hành một cuộc đổ bộ của bộ binh vùng Nam Dak-Séang.
Chừng mười phút sau, tôi nghe tiếng bốn, năm khẩu cối của Việt-Cộng từ hướng Tây bắn ào ào sang khu vực có những bãi đổ quân giả.
Tôi không có nhiệm vụ thám sát vùng địch đặt cối, cũng như chặn đánh các đơn vị địch di chuyển trong vùng này. Do đó tôi chỉ báo chuyện này cho Thiếu tá Lê Phú Ðào để ông tùy nghi. Khoảng một giờ sau, các toán Việt-Cộng lại nối đuôi nhau ngược đường về khu rừng già hướng Tây.
Chiều xuống, toán của tôi bắt đầu di chuyển tới điểm hẹn. Ðiểm hẹn nằm trên con đường mòn cũ bên con suối nhỏ dưới chân ngọn đồi của Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân.
Rừng tối đen như mực, rời tay khỏi lưng áo người đi trước là bị lạc ngay. Chúng tôi cứ nhắm hướng 3200 ly giác trên địa bàn mà tiến.
Chui ra khỏi rừng cỏ gai, chúng tôi rơi vào một triền dốc nồng nặc mùi thối của xác chết.
Chợt như chân giầy của tôi giẫm lên một cái sọ dừa, tôi trượt về phía trước, mũi giày dính theo một miếng bầy nhầy nhớp nháp như miếng bánh tráng ướt. Tôi té nhào, đánh rơi cái bản đồ.
Tôi đành dừng lại, ngồi xuống, quơ tay mò mẫm, nhưng không thấy cái bản đồ đâu.
Tôi móc cái đèn pin mini ra, bàn tay trái bụm cái loa đèn cho bớt sáng, rọi một vòng sát đất. Tôi tìm được cái bản đồ ngay dưới giày của tôi!
Trong lúc quýnh quáng, tôi đã đạp lên cái bản đồ, mũi giày còn vướng một mảng da đầu người chết, với mớ tóc bầy nhầy máu thịt.
Chúng tôi tiếp tục đi theo triền cỏ tranh, lâu lâu lại đá phải một thây ma, hoặc một cái ba lô. Tới một lối mòn cùng hướng tiến, tôi kéo áo cho người đi đầu theo đường mà đi. Ngờ đâu, mặt đường nơi này ngổn ngang xác người. Vấp phải một thây ma, tôi bị ngã nhào, đập mặt lên cái thây nằm phía trước. Cứ thế, người đi trước bị té, kéo theo người đi sau. Tay chân, quần áo, súng ống dính nhớp nháp chất thịt thối, thở không nổi.